Menu

Góc Mẹ và Bé

Góc Mẹ và Bé sẽ là nơi chia sẽ những kiến thức và kinh nghiệm cho các bà mẹ trong thời kỳ mang thai và nuôi dạy con khôn lớn

7 câu hỏi về tiêm vaccine sởi cho trẻ

Phác đồ vaccine khi không rõ lịch sử tiêm chủng, phản ứng sau tiêm cùng 5 câu hỏi khác về chủng ngừa sởi trong dịch bệnh, được giải đáp dưới đây.

– Phác đồ tiêm ra sao khi không rõ lịch sử tiêm chủng?

Thông thường, để biết trẻ tiêm đủ mũi sởi hay chưa, phụ huynh có thể chủ động kiểm tra sổ hoặc phiếu tiêm chủng. Nếu đã đánh mất các giấy tờ này, gia đình nên liên hệ trạm y tế hoặc trung tâm tiêm chủng để được tra cứu thông tin về lịch sử tiêm phòng của con. Trường hợp không có thông tin tiêm chủng, trẻ sẽ được tiêm lại từ đầu với phác đồ ít nhất hai mũi.

– Tiêm thừa mũi vaccine có ảnh hưởng sức khỏe không?

Việc bổ sung thêm mũi vaccine không gây quá tải hệ miễn dịch hoặc ảnh hưởng sức khỏe của trẻ. Trong tình hình dịch sởi, ưu tiên hàng đầu là trẻ được chủng ngừa, tránh mắc và gặp biến chứng nguy hiểm do sởi, đồng thời tăng độ bao phủ tiêm chủng trong cộng đồng để sớm kiểm soát dịch bệnh.

Ưu tiên hàng đầu khi có dịch sởi là trẻ được tiêm phòng tránh mắc và gặp biến chứng. Ảnh: Unsplash

Ưu tiên hàng đầu khi có dịch sởi là trẻ được tiêm phòng tránh mắc và gặp biến chứng. Ảnh: Unsplash

– Vaccine sởi tiêm cùng loại khác được không?

Trong cùng một buổi tiêm, trẻ có thể tiêm vaccine sởi đồng thời với các loại khác như cúm, thủy đậu, phế cầu… Vị trí tiêm ở các chi khác nhau của cơ thể. Việc tiêm đồng thời các vaccine cho đáp ứng miễn dịch và phản ứng phụ tương đương khi tiêm riêng lẻ. Từ đó, gia đình tiết kiệm thời gian di chuyển đến trung tâm tiêm chủng, giảm số lần chăm sóc sau tiêm.

Bác sĩ sẽ khám sàng lọc sức khỏe của em bé để quyết định mũi tiêm phù hợp. Tuy nhiên, nếu tiêm khác ngày, vaccine sởi cần tiêm cách các vaccine sống giảm độc lực như thủy đậu một tháng, tối thiểu 28 ngày.

– Có phác đồ tiêm nhanh trong dịch sởi không?

Thông thường, ở chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR), trẻ sẽ tiêm một mũi sởi đơn lúc 9 tháng tuổi, sau đó nhắc mũi sởi – rubella lúc 18 tháng tuổi. Nếu tiêm dịch vụ, tùy theo lịch sử và độ tuổi tiêm chủng, trẻ sẽ được chỉ định tiêm hai hoặc ba mũi vaccine có thành phần phòng sởi, các mũi cách nhau ba tháng hoặc ba năm.

Khi có dịch bệnh, trẻ từ 12 tháng tuổi có thể tiêm các mũi vaccine phòng sởi cách nhau tối thiểu một tháng. Bên cạnh đó, thông tin kê toa của nhà sản xuất vaccine sởi đơn (MVVac) và sởi – quai bị – rubella (MMR II) cũng cho phép tiêm ngừa hai loại này cho em bé từ 6 tháng tuổi, giúp trẻ phòng bệnh sớm.

– Phản ứng sau tiêm ra sao, chăm sóc thế nào?

Theo Cục Y tế Dự phòng, các phản ứng thường gặp sau tiêm ngừa sởi gồm sốt, sưng, nóng, đỏ, đau tại chỗ tiêm… Trong đó sốt chiếm tỷ lệ 5-15%, phát ban chiếm 5%.

Các phản ứng sau tiêm thường nhẹ và có thể tự khỏi sau 1-2 ngày mà không cần điều trị. Phụ huynh có thể chườm mát tại chỗ tiêm và cho trẻ uống thuốc hạ sốt theo hướng dẫn của bác sĩ.

– Nếu tiêm một mũi ở chiến dịch tiêm chủng của TP HCM, tiêm tiếp mũi 2 dịch vụ được không?

Trường hợp một, nếu trẻ đã tiêm mũi 1 trước đó, tiêm trong chiến dịch được xem là mũi 2. Như vậy trẻ đã hoàn thành hai mũi vaccine sởi, chỉ thiếu vaccine ngừa quai bị và rubella. Sau khi hoàn thành mũi hai trong chiến dịch, phụ huynh vẫn có thể đưa trẻ đến các trung tâm tiêm chủng dịch vụ để được tư vấn vaccine có thành phần ngừa hai bệnh trên.

Trường hợp hai, nếu trẻ tiêm mũi đầu tiên trong chiến dịch, có thể bổ sung mũi 2 ở tiêm chủng dịch vụ. Hiện loại vaccine dùng ở chiến dịch tiêm chủng là vaccine ngừa sởi – rubella (MRVac). Tại tiêm chủng dịch vụ, trẻ sẽ bổ sung mũi ngừa sởi – quai bị – rubella, cách mũi sởi – rubella trong chiến dịch tối thiểu một tháng với trẻ từ 1 tuổi.

– Nên tiêm sởi dịch vụ hay tiêm chủng mở rộng?

Vaccine sởi đã phổ biến trong chương trình TCMR và tiêm chủng dịch vụ. Phụ huynh có thể lựa chọn nơi tiêm chủng cho con phù hợp với mong muốn và điều kiện kinh tế của từng gia đình.

Chương trình TCMR hiện có loại vaccine sởi đơn và phối hợp phòng hai bệnh sởi – rubella còn tiêm chủng dịch vụ có hai loại gồm vaccine sởi đơn và phối hợp phòng ba bệnh sởi – quai bị – rubella.

Bác sĩ Thuyết lưu ý dù phụ huynh lựa chọn tiêm chủng ở đâu, cũng cần tuân thủ tiêm đủ liều, đúng lịch. Hai mũi vaccine sởi có giá trị bảo vệ lên đến 98% giúp trẻ phòng bệnh hiệu quả.

Nguồn : vnexpress.vn

3 bài tập dành cho các mẹ sau sinh, vừa giúp giảm cân lại thu hẹp vùng chậu

Quá trình mang thai và sinh nở không chỉ ảnh hưởng đến cân nặng mà còn gây ra những vấn đề về cơ bắp, đặc biệt là vùng chậu. Việc giảm cân và thu hẹp vùng chậu sau sinh không chỉ giúp các mẹ lấy lại vóc dáng mà còn hỗ trợ phục hồi sức khỏe và sự tự tin.

Theo các chuyên gia sản – phụ khoa, phụ nữ sau sinh thường gặp nhiều vấn đề liên quan đến ngoại hình, trong đó cân nặng và hình dáng cơ thể là những lo ngại lớn nhất. Việc tăng cân trong quá trình mang thai là điều không thể tránh khỏi, nhưng sau khi sinh, việc này trở thành một thách thức đối với nhiều mẹ. Các tình trạng ấy có thể bao gồm làn da trở nên chảy xệ, vòng bụng to,…

Đặc biệt, tình trạng giãn vùng chậu cũng là điều đáng lo ngại. Cụ thể, xương chậu sau sinh của phụ nữ thường bị giãn nở và mất đi sự săn chắc vốn có do trong suốt quá trình mang thai, cơ và dây chằng ở vùng chậu bị kéo giãn để tạo không gian cho thai nhi phát triển.

3 bai tap danh cho cac me sau sinh, vua giup giam can lai thu hep vung chau

Nếu không có các biện pháp phục hồi sau sinh, vùng chậu của các chị em có thể bị suy yếu và gây ra các vấn đề như đau lưng, tiểu không kiểm soát và giảm khả năng sinh hoạt hàng ngày (Ảnh: Internet)

Điều này cho thấy, việc tập luyện để thu hẹp vùng chậu là rất quan trọng không chỉ để lấy lại vóc dáng mà còn để bảo vệ sức khỏe lâu dài. Tuy nhiên, cần dành thời gian để hồi sức sau sinh cũng như chăm con khiến các chị em không thể đến các phòng tập để tập luyện. Vì thế, các chuyên gia sức khỏe đã chỉ ra 3 bài tập phổ biến, dễ thực hiện tại nhà mà không mất nhiều thời gian để các chị em tiện rèn luyện nhất có thể:

1. Bài tập Kegel

Bài tập Kegel được đánh giá là một trong những bài tập phổ biến và hiệu quả nhất để giúp phục hồi vùng chậu sau sinh. Bài tập này giúp tăng cường cơ sàn chậu bằng cách co thắt và thả lỏng các cơ xung quanh niệu đạo và hậu môn.

Để thực hiện bài tập Kegel, bạn cần nằm ngửa, co đầu gối và đặt hai chân cách nhau một khoảng nhỏ. Sau đó, từ từ co thắt cơ sàn chậu trong khoảng 5 giây, rồi thả lỏng trong 5 giây. Lặp lại động tác này 10 – 15 lần cho mỗi lần tập. Thực hiện 5 – 6 lần/ ngày, tùy vào thời gian rảnh của các chị em.

3 bai tap danh cho cac me sau sinh, vua giup giam can lai thu hep vung chau

Bài tập Kegel không chỉ giúp thu hẹp vùng chậu mà còn giúp cải thiện vấn đề tiểu không kiểm soát và tăng cường sức mạnh cơ bắp (Ảnh: Internet)

2. Bài tập plank cơ bản

Đây là bài tập không chỉ giúp tăng cường sức mạnh cho vùng cơ bụng mà còn giúp hỗ trợ phục hồi vùng chậu sau sinh. Để thực hiện, hãy bắt đầu bằng cách nằm sấp, sau đó nâng cơ thể lên bằng cách chống tay và mũi chân, giữ cơ thể thẳng từ đầu đến gót chân. Giữ tư thế này trong 20 – 30 giây, sau đó thả lỏng và nghỉ ngơi. Lặp lại 3 – 5 lần mỗi buổi tập.

Plank không chỉ giúp đốt cháy mỡ thừa, giảm cân hiệu quả mà còn giúp vùng chậu săn chắc hơn, ngăn ngừa các vấn đề về cột sống và giúp cải thiện dáng đi.

3. Bài tập squat sâu

Squat không chỉ là bài tập giúp săn chắc cơ đùi và mông, mà còn tác động mạnh mẽ đến vùng chậu. Khi thực hiện động tác squat, cơ thể phải sử dụng nhiều cơ bắp khác nhau, đặc biệt là cơ sàn chậu. Để thực hiện bài tập này, bạn đứng thẳng, hai chân mở rộng bằng vai, sau đó hạ người xuống giống như đang ngồi ghế, giữ lưng thẳng và đầu gối không vượt quá mũi chân. Từ từ đứng dậy trở lại vị trí ban đầu. Lặp lại 15 – 20 lần mỗi buổi tập.

3 bai tap danh cho cac me sau sinh, vua giup giam can lai thu hep vung chau

Squat sâu không chỉ giúp thu hẹp vùng chậu mà còn giúp cơ thể đốt cháy nhiều calo, hỗ trợ giảm cân sau sinh hiệu quả (Ảnh: Internet)

Việc chăm sóc sức khỏe sau sinh là vô cùng quan trọng đối với các bà mẹ sau sinh. Và 3 bài tập kể trên là những phương pháp đơn giản nhưng rất hiệu quả, không chỉ giúp giảm cân mà còn hỗ trợ thu hẹp và phục hồi vùng chậu sau sinh. Bằng cách kiên trì thực hiện các bài tập này hàng ngày, các mẹ sẽ sớm lấy lại được vóc dáng săn chắc, đồng thời cải thiện sức khỏe và tăng cường sự tự tin trong cuộc sống hàng ngày.

Bé sút 2kg sau nửa tháng đi du lịch: Đến viện bác sĩ gắp ra con vật ‘còn sống’

Đưa trẻ em đi du lịch vui thì vui thật nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Sự việc này chính là một ví dụ điển hình để mọi người cảnh giác hơn. Thông tin đã được báo chí đăng tải rồi, mình chia sẻ lại chi tiết trong bài viết bên dưới cho mọi người cùng biết nhé!

Khoảng nửa tháng trước, gia đình bé 32 tháng tuổi (quê ở Thạch Khoán, Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) tổ chức đi chơi ở thác nước. Chuyến đi bình an vui vẻ không có vấn đề gì nhưng sau khi về nhà mọi chuyện mới nảy sinh.

Theo gia đình kể lại, những ngày đầu trở về sau chuyến đi chơi, bé không có biểu hiện bất thường. Sau đó bé bị ho và thường xuyên c/h/ả/y m/á/u mũi, người xanh xao. Gia đình bé vô cùng lo lắng khi phát hiện trong nửa tháng kể từ khi đi du lịch về, bé đã giảm 2kg. Thấy vậy, gia đình đã đưa em bé này đến cơ sở y tế để kiểm tra

Sau khi thăm khám và hỏi han tình hình bệnh  nhân, bác sĩ chỉ định cho bé nội soi mũi họng để kiểm tra. Quá trình này, bác sĩ phát hiện trong mũi bé có một con vắt sống. Điều này khiến những người chứng kiến vô cùng hoảng hốt.

hình ảnh

Hình ảnh con vắt được gắp ra khỏi mũi bé gái sau khi đi du lịch cùng gia đình, ảnh: VTC

Sau khi được lấy con vật ra khỏi mũi, sức khỏe của bé gái đã ổn định. Bé cũng không còn ho và không bị c/h/ả/y m/á/u m/ũi.

Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Thanh, Chuyên khoa Tai Mũi Họng tại Trung tâm Y tế huyện Thanh Thủy (tỉnh Phú Thọ), dị vật là con vắt nằm trong mũi thường gây phù nề, xuất tiết, tắc nghẽn dẫn đến viêm mũi xoang, hoặc có thể bám hút ở các mạch máu lớn hoặc di chuyển xuống thanh quản. Nếu để lâu sẽ dẫn đến tình trạng chảy máu mũi dai dẳng và gây thiếu máu mạn tính.

Vắt sống ở đất rất đ/ó/i m/á/u, chúng thường ẩn núp trong các hốc đá, dưới lá cây, dòng suối. Khi người hoặc các loại động vật đi qua, vắt búng nhảy và bám vào để hút máu. Vết hút máu trên da thường không đau nhưng gây chảy máu kéo dài, có thể nguy hiểm đến tính mạng, nhất là khi chúng chui vào mũi, khí quản, ống tiêu hóa.

Người dân không nên sử dụng nguồn nước không đảm bảo ở các khe suối để uống, sinh hoạt, đề phòng đỉa, vắt chui vào hốc tự nhiên của cơ thể. Đối với những người tắm suối, thác, ao, hồ khi có những triệu chứng như ngạt tắc mũi, vướng họng kèm theo có chảy máu mũi, ho khạc ra máu, khàn tiếng cần đi khám nội soi tai mũi họng ngay để loại trừ dị vật sống ở đường hô hấp trên.

hình ảnh

Điều quan trọng nhất là đảm bảo an toàn khi cho trẻ đi du lịch, ảnh: dSD

Mời bà con đọc thêm thông tin: Những lưu ý để bảo vệ trẻ an toàn khi đi du lịch cùng gia đình

Theo chuyên gia bảo vệ trẻ em, các bậc cha mẹ luôn muốn đi du lịch đến một nơi có nhiều điểm tham quan hấp dẫn với các hoạt động vui chơi vui vẻ. Tuy nhiên, nếu bạn mang theo con nhỏ, điều quan trọng nhất là phải tìm hiểu địa điểm bạn định đến có những nguy cơ gì đối với trẻ, từ đó có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước mỗi chuyến đi.

Khi đi du lịch khâu chuẩn bị là rất quan trọng. Thứ nhất, các bậc phụ huynh phải tìm hiểu kỹ về điều kiện khí hậu, địa lý, văn hóa… nơi mình định đến và có sự chuẩn bị kỹ cho con. Thứ hai, các bậc phụ huynh cần mang theo các vật dụng cần thiết để xử lý các vấn đề phát sinh có thể xảy ra như bị tai nạn thương tích hoặc gặp vấn đề gì đó về sức khỏe. Thứ ba, luôn quan đến việc giữ gìn sức khỏe cho con từ những thứ đơn giản như chuẩn bị áo ấm nếu đến những nơi có thời tiết lạnh.

Đuối nước là một trong những tai nạn các phụ huynh cần hết sức lưu tâm khi đến những nơi có bể bơi, sông suối, ao hồ hay biển. Khi cho trẻ bơi, phụ huynh phải mặc áo phao cho trẻ, đặc biệt phải luôn quan sát, để mắt đến con trong suốt quá trình vui chơi. Nếu chẳng may xảy ra đuối nước, tuyệt đối không được dốc ngược người trẻ lên vai rồi chạy mà phải nhanh chóng ép tim và hà hơi thôi ngạt cho trẻ.

Cùng với tai nạn đuối nước, trong một chuyến đi du lịch có thể xảy ra rất nhiều vấn đề đối với trẻ nhỏ như bị ngộ độc, thương tích, hóc dị vật hay bị lạc…Chính vì vậy, bên cạnh việc để mắt đến trẻ thường xuyên, các bậc phụ huynh cũng cần trang bị cho con các kỹ năng. Khi đến một địa điểm mới, cha mẹ nên nói với con khu vực chơi này có những mối nguy nào. Ví dụ đâu là vùng an toàn để bơi; đi vào rừng có thể có những nguy cơ gì, cách phòng tránh như thế nào; cách thoát hiểm ra sao khi gặp hỏa hoạn…

Đi du lịch cùng với trẻ em không chỉ đơn giản là “xách ba lô và lên đường”. Trước những nguy cơ nguy hiểm luôn luôn tiềm ẩn xung quanh thì cha mẹ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cũng như luôn luôn quan sát, để ý con trẻ, đồng thời cũng phải trang bị cho bản thân mình và trẻ em những kiến thức và kỹ năng ứng phó với các tình huống có thể xảy ra.

Dấu hiệu dễ nhầm lẫn giữa sởi và sốt phát ban

Nhiều người thường nhầm lẫn bệnh sởi và sốt phát ban vì có nhiều triệu chứng giống nhau. Tuy nhiên, đây là hai căn bệnh hoàn toàn khác nhau.

Sởi và sốt phát ban là 2 bệnh do virus truyền nhiễm khác nhau nhưng có nhiều triệu chứng tương tự. Ảnh minh họa: Happiestbaby.

Theo Medical News Today, sởi và sốt phát ban là 2 bệnh do virus truyền nhiễm khác nhau thường gây phát ban và sốt ở trẻ em. Bệnh sởi lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm virus sởi hoặc qua các giọt nhỏ trong không khí.

Virus sởi rất dễ lây lan, có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Những người mắc bệnh sởi thường bị sốt cao và phát ban. Bệnh sởi có nguy cơ biến chứng cao hơn ở trẻ em dưới 5 tuổi hoặc người lớn trên 30 tuổi.

Trong khi đó, sốt phát ban cũng lây lan qua các giọt hô hấp nhỏ mà mọi người hít vào hoặc chạm phải bề mặt chứa giọt hô hấp này. Bệnh này thường xuất hiện ở trẻ em trong độ tuổi 6-12 tháng. Trẻ mắc bệnh này sẽ bị sốt cao, sau đó nổi mẩn đỏ hoặc hồng.

Sốt phát ban là bệnh do virus tự giới hạn, có nghĩa là nó thường sẽ khỏi mà không cần chăm sóc y tế. Các bác sĩ khuyên nên điều trị sốt phát ban tại nhà trừ khi trẻ bị co giật hoặc sốt cao kéo dài.

Mặc dù cả hai bệnh có nhiều điểm tương đồng, một số yếu tố khác biệt chẳng hạn triệu chứng xuất hiện như thế nào và sự tiến triển của bệnh.

Sởi Sốt phát ban
Nốt phát ban Phát ban có màu đỏ hoặc nâu đỏ, có những đốm trắng nhỏ nổi lên trên các đốm đỏ. Bắt đầu ở mặt, sau đó lan dần xuống dưới Phát ban có màu đỏ hồng, bắt đầu ở thân và lan ra
Triệu chứng kèm theo
  • – Ho
  • – Viêm kết mạc
  • – Sổ mũi
  • – Sốt
  • – Xuất hiện đốm Koplik (đốm trắng nhỏ xuất hiện trong miệng)
  • – Sốt cao có thể >40 độ C
  • – Viêm kết mạc
  • – Mệt mỏi
  • – Chán ăn
  • – Tiêu chảy
  • – Ho
  • – Xuất hiện đốm Nagayama (vết sưng tấy trong miệng giữa vòm miệng mềm và lưỡi gà)
  • – Sưng tai trong
  • – Sưng hạch bạch huyết
Thời gian kéo dài bệnh Các triệu chứng bệnh sởi có thể kéo dài đến 2 tuần Sốt kéo dài 3-5 ngày, sau đó nổi mẩn đỏ. Phát ban kéo dài khoảng 2 ngày.

Dấu hiệu phát hiện sớm và phòng bệnh tay chân miệng

Tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm do virus đường ruột gây ra (thường gặp là Coxsackie virus A6, A10, A16 và Enterovirus 71), lây từ người sang người chủ yếu theo đường tiêu hóa, dễ gây thành dịch.

Trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ghi nhận 2.799 ca bệnh tay chân miệng, tăng 27,58% so với cùng kỳ 2023 (2.194 ca), không ghi nhận ca tử vong.

Bệnh xảy ra quanh năm, gặp ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ở trẻ em dưới 10 tuổi, thường là dưới 5 tuổi. Trẻ càng nhỏ thì các triệu chứng càng nghiêm trọng hơn. Trẻ em có nguy cơ lây nhiễm virus và mắc bệnh nặng hơn vì các em có sức đề kháng và hệ miễn dịch yếu hơn người lớn.

Điều đáng lưu ý là một trẻ có thể nhiễm bệnh tay chân miệng nhiều lần do mỗi lần nhiễm bệnh, cơ thể chỉ tạo ra kháng thể với một loại virus nhất định. Do đó, dù đã từng nhiễm, trẻ vẫn có thể mắc bệnh trở lại nếu bị nhiễm virus khác thuộc nhóm Enterovirus.

Bệnh tay chân miệng có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não – màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến nguy hiểm tính mạng nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời.

tay chan mieng dau hieu anh 1
Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng dưới vòi nước chảy nhiều lần trong ngày để phòng bệnh tay chân miệng.

Dấu hiệu phát hiện sớm bệnh tay chân miệng

Dấu hiệu đặc trưng của bệnh tay chân miệng là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, đầu gối.

Tuy nhiên, tùy vào từng giai đoạn, bệnh tay chân miệng có những dấu hiệu nhận biết khác nhau, cụ thể như sau:

Giai đoạn khởi phát từ 1 đến 2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày.

Giai đoạn toàn phát có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển hình của bệnh như loét miệng (vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3 mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt); phỏng nước ở lòng bàn tay, khuỷu tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông, cùi trỏ; sốt nhẹ; ăn, bú kém.

Giai đoạn lui bệnh thường từ 3 đến 5 ngày sau giai đoạn toàn phát, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.

Nắm rõ các dấu hiệu nhận biết trên giúp gia đình phát hiện sớm trẻ mắc bệnh và đưa trẻ đến khám tại các cơ sở y tế để được tư vấn kỹ hơn về cách chăm sóc, theo dõi và phát hiện triệu chứng bệnh nặng lên để kịp thời điều trị.

Gia đình cần đưa trẻ tới cơ sở y tế ngay khi phát hiện trẻ có trên dấu hiệu bệnh nặng sau:

Giật mình chới với: Đây là dấu hiệu quan trọng nhận biết trẻ bị tay chân miệng chuyển nặng, dấu hiệu này báo hiệu biến chứng thần kinh ở trẻ. Trẻ thường giật mình từng cơn ngắn 1-2 giây, chủ yếu ở tay và chân, dễ xuất hiện khi bắt đầu giấc ngủ hay khi cho trẻ nằm ngửa.

Sốt cao liên tục không hạ: Trẻ có thể sốt trên 38,5 độ C liên tục hơn 48 giờ và không tác dụng với thuốc hạ sốt Paracetamol. Điều này cảnh báo mức độ viêm rất mạnh trong cơ thể trẻ dễ dẫn đến nhiễm độc thần kinh.

Quấy khóc liên tục kéo dài: Trẻ quấy khóc cả đêm hoặc cứ ngủ từ 15 đến 20 phút lại dậy và quấy khóc liên tục.

Biện pháp phòng bệnh

Trẻ dễ bị mắc bệnh tay chân miệng chủ yếu liên quan đến thực hành vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường không đảm bảo, chưa rửa tay với xà phòng thường xuyên.

Để chủ động phòng, chống bệnh tay chân miệng cho bản thân, trẻ em trong gia đình và cộng đồng, người dân cần chủ động thực hiện các biện pháp sau:

  • Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng dưới vòi nước chảy (cả người lớn và trẻ em), đặc biệt trước khi chế biến thức ăn, trước khi ăn/cho trẻ ăn, trước khi bế trẻ, sau khi đi vệ sinh, sau khi thay tã và làm vệ sinh cho trẻ.
  • Thực hiện tốt vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống chín; vật dụng ăn uống phải đảm bảo được rửa sạch sẽ trước khi sử dụng (tốt nhất là ngâm tráng nước sôi); đảm bảo sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày; không mớm thức ăn cho trẻ; không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi; không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay, vật dụng ăn uống như cốc, bát, đĩa, thìa, đồ chơi chưa được khử trùng.
  • Thường xuyên lau sạch các bề mặt, dụng cụ tiếp xúc hàng ngày như đồ chơi, dụng cụ học tập, tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, mặt bàn/ghế, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường.
  • Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
  • Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, phân và các chất thải của bệnh nhân phải được thu gom và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
  • Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh cần đưa trẻ đi khám hoặc thông báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất.

Bệnh hen ở trẻ có biểu hiện gì?

Bệnh hen ở trẻ gây triệu chứng khó chịu, cản trở hoạt động vui chơi, học tập và giấc ngủ của trẻ.

Bệnh hen suyễn gây ra những triệu chứng khó chịu, cản trở hoạt động vui chơi, học tập, vận động và giấc ngủ của trẻ.

Nhiều người cho rằng nếu trẻ bị ho và sổ mũi lâu ngày sẽ dẫn đến hen. Điều này là sai và phản khoa học. Ngược lại, ở trẻ bị ho kéo dài hoặc trẻ viêm mũi dị ứng thì cần được bác sĩ kiểm tra xem nguyên nhân của triệu chứng đó là do hen hay do bệnh lý khác. Nghĩa là ho kéo dài không dẫn tới hen.

Hen là một bệnh lý đa yếu tố, do sự tương tác giữa cơ địa của bệnh nhân (di truyền, dị ứng, rối loạn miễn dịch) với yếu tố môi trường (khói thuốc, ô nhiễm không khí, nhiễm trùng, dị nguyên) và thời gian tương tác giữa các yếu tố này.

Có thể tiên lượng trẻ bị hen dựa vào chỉ số tiên đoán hen gồm các yếu tố chàm da, cha mẹ bị hen, trẻ bị dị ứng với dị nguyên hô hấp, dị ứng sữa, trứng, viêm mũi dị ứng và khò khè không liên quan đến cảm lạnh.

Biểu hiện gợi ý khi trẻ bị hen

Trên thực tế, thời tiết nắng mưa thất thường sẽ khiến nhiều trẻ bị hen phải nhập viện thăm khám với các biểu hiện hen cấp, trẻ chưa có tiền căn hen cũng thở khò khè, ho có đờm, sổ mũi. Các triệu chứng của cơn hen có thể bao gồm ho, khò khè, nặng ngực, khó thở…

Để chẩn đoán được bệnh hen, cần kết hợp 2 yếu tố quan trọng là triệu chứng và gợi ý:

Trẻ bị hen (khò khè tái lại, tiền căn gia đình, tiền căn dị ứng…) cần xét nghiệm nhằm xác định sự tắc nghẽn luồng khí thở ra bằng cách đo chức năng hô hấp.

Tuy nhiên, trẻ nhỏ khó hợp tác và xét nghiệm không có sẵn ở tất cả cơ sở y tế. Vì vậy, ở trẻ dưới 5 tuổi, có thể chẩn đoán hen khi:

  • Trẻ khò khè tái đi tái lại trên 3 lần ở trẻ dưới 12 tháng và trên 2 lần ở trẻ trên 12 tháng) và khò khè được xác nhận bởi bác sĩ.
  • Khò khè đáp ứng với điều trị hen (phun khí dung với Salbutamol).
  • Tiền căn hen gia đình hoặc yếu tố khởi phát cơn giống nhau ở các cơn.
  • Khò khè không do các nguyên nhân khác. Điều này phải được bác sĩ khám, hỏi bệnh thật kĩ và thực hiện thêm một số xét nghiệm cần thiết.

Khò khè chỉ sự tắc nghẽn của phần đường thở trong lồng ngực, xảy ra khi có viêm đường thở dưới, hoặc tắc nghẽn do đờm… Khi khò khè, trẻ gặp khó khăn khi thở ra. Nếu khò khè nặng sẽ nghe tiếng “khè” khi trẻ thở ra, nặng hơn nữa là tiếng rít cả khi trẻ hít vào và thở ra.

Cần phân biệt với tiếng thở lớn ở trẻ nhỏ khi bị viêm mũi họng, là do đờm nhớt ứ đọng ở vùng mũi họng, tạo ra tiếng “rột rột” hoặc “khụt khịt” rất lớn tiếng khi trẻ hít thở mà không hề gây khó thở thực sự “bởi vì trẻ có thể há miệng để thở”.

Vậy, có thể nói hen là một bệnh lý viêm đường thở mạn tính, gây ra triệu chứng khò khè khi vào cơn cấp.

Cần làm gì khi trẻ bị lên cơn hen?

Khi bị lên cơn hen thì trẻ sẽ thở mệt, khó thở hoặc ho nhiều liên tục, nặng ngực, thở nhanh.

Nếu trẻ đã được chẩn đoán hen trước đó, có các triệu chứng nghi ngờ trẻ vào cơn hen cấp, phụ huynh cần cho trẻ thở khí dung hoặc hít thuốc qua bình xịt định liều với thuốc Salbutamol (bình thuốc màu xanh dương) theo đúng chỉ định của bác sĩ. Sau đó, cho trẻ đến khám bác sĩ để được thăm khám và điều trị; tTuyệt đối không lạm dụng thuốc Salbutamol để phun khí dung khi thấy trẻ bị khò khè, hoặc khi trẻ ho nhiều chưa rõ nguyên nhân.

Để bệnh hen không nguy hiểm đến tính mạng của trẻ, cha mẹ cần xác định và tránh các tác nhân gây cơn hen cấp.

Cha mẹ cần ghi lại nhật kí hen suyễn (số lần lên cơn, thời gian lên cơn, ảnh hưởng đến sinh hoạt của trẻ như thế nào), từ đó có cơ sở dữ liệu trao đổi với bác sĩ, để bác sĩ đề ra kế hoạch hành động hợp lý nhất; hiểu cách thức và thời điểm sử dụng thuốc điều trị bệnh hen suyễn; đảm bảo kỹ thuật sử dụng đúng.

Cha mẹ không tự ý ngưng các thuốc dự phòng khi thấy diễn tiến bệnh ở trẻ tốt lên; không dùng thuốc theo mách bảo, nhất là uống thuốc nam, thuốc bắc để điều trị hen… tránh nguy hiểm đến sức khỏe của trẻ.

Bệnh hen suyễn ở trẻ được phân loại kiểu hình theo triệu chứng:

– Hen suyễn khởi phát do virus: Trẻ bị khò khè từng đợt kèm với bệnh viêm đường hô hấp trên do virus, không có triệu chứng giữa các đợt này.

– Hen suyễn khởi phát do vận động: Trẻ bị khò khè sau vận động gắng sức, ngoài lúc này ra trẻ không có triệu chứng.

– Hen suyễn khởi phát do nhiều yếu tố: Trẻ bị khò khè do nhiều yếu tố như thời tiết, vận động, virus, dị nguyên, giữa các đợt khò khè này có triệu chứng.

Bệnh hen suyễn ở trẻ được phân loại kiểu hình theo thời gian:

– Hen suyễn thoáng qua: Trẻ có triệu chứng hen suyễn và kết thúc trước 3 tuổi, thường gặp ở trẻ sinh non, nhẹ cân, gia đình có người hút thuốc lá, tái nhiễm virus nhiều lần, thường gặp ở trẻ không có cơ địa dị ứng.

– Hen suyễn kéo dài: Trẻ có triệu chứng hen suyễn trước 3 tuổi và tiếp tục sau đó.

– Hen suyễn khởi phát muộn: Trẻ có triệu chứng hen suyễn sau 3 tuổi.

‘Đại dịch’ mới của phụ nữ

Theo thống kê mới nhất của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, số ca bệnh ung thư vú đang có xu hướng gia tăng nhanh, đứng thứ 2 thế giới về số người mắc ung thư.

Vết sẹo phẫu thuật ung thư vú trên ngực của một bệnh nhân. Ảnh: Washington Post.

Vài năm trước, Kelsey Kaminky (Colorado, Mỹ) bất ngờ phát hiện mình có khối u ở ngực, nhỏ như một viên bi. Vì Kaminky còn trẻ, bác sĩ cho rằng khối u này lành tính và cô không cần làm xét nghiệm thêm.

“Nhưng cơ thể tôi đang bất ổn, tôi biết. Đó là lý do tôi khăng khăng yêu cầu chụp nhũ ảnh dù không cần thiết”, Kaminky, giờ đây đã 33 tuổi, chia sẻ với Washington Post.

Vài hôm sau, kết quả cận lâm sàng đã chứng tỏ nỗi lo của Kaminky đúng. Cô được xác định mắc ung thư vú ở tuổi 31, giai đoạn 1B, rất sớm.

Kaminky là một trong 4% trường hợp được xác định mắc ung thư vú ở phụ nữ dưới 40 tuổi trong năm 2022 tại Mỹ. Tuy nhiên, những trường hợp này đang dần phổ biển hơn.

Ngày một nhiều phụ nữ trẻ mắc ung thư vú

Theo thống kê mới nhất của Globocan, dự án thuộc Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, năm 2022, thế giới có 2,2 triệu bệnh nhân mắc ung thư vú, nhiều thứ 2 trong tổng số các loại ung thư được báo cáo (sau ung thư phổi).

Số ca tử vong được ghi nhận là 666.000, đứng thứ 4 (sau ung thư phổi, ung thư trực tràng và ung thư gan).

Tại Việt Nam, ung thư vú là căn bệnh ung thư có số người mắc nhiều nhất với 24.563 ca, chiếm 13,6% tổng số bệnh nhân được báo cáo. Về trường hợp tử vong, năm 2022, số lượng được báo cáo là 10.008, chiếm tỷ lệ 8,3%, đứng thứ 4 trong số ca tử vong gây ra do ung thư (sau ung thư gan, ung thư phổi và ung thư dạ dày).

Theo Washington Post, nhìn chung, tỷ lệ mắc ung thư vú ở phụ nữ dưới 40 tuổi là thấp. Thống kê năm 2019 cho thấy tỷ lệ mắc chỉ khoảng 25/100.000 người. Trong khi đó, tỷ lệ này ở nhóm tuổi 40-64 và 65-74 lần lượt là 229/100.000 và 462/100.000.

Một nghiên cứu công bố trong năm 2023 trên JAMA Network Open cho thấy ung thư đang gia tăng ở những người Mỹ trẻ tuổi (dưới 50 tuổi), đặc biệt là ở phụ nữ.

Trong khoảng thời gian 2010-2019, số ca được chẩn đoán mắc ung thư ở những người 30-39 tuổi tăng 19,4%. Mức tăng này ở nhóm tuổi 20-29 là 5,3%. Trong đó, ung thư vú chiếm số ca mắc cao nhất ở những người trẻ tuổi.

Tỷ lệ chẩn đoán ung thư vú giai đoạn cuối ở phụ nữ trẻ cũng đang tăng lên. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, tỷ lệ này ở phụ nữ dưới 40 tuổi đã tăng khoảng 3% mỗi năm trong vòng 19 năm (2000-2019).

Bên cạnh đó, trong khi tỷ lệ tử vong ở nhóm phụ nữ lớn tuổi mắc ung thư vú giảm, tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ trẻ lại không có nhiều biến chuyển tích cực.

“Chúng ta cần ngừng cho rằng tuổi còn trẻ sẽ không mắc ung thư vú. Nó thực sự đã được phát hiện ở nhiều phụ nữ trẻ và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của họ”, bác sĩ Debra Monticciolo, Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh vú tại Trung tâm Y tế Dartmouth-Hitchcock (Mỹ), cho biết.

Bất chấp xu hướng trẻ hóa này, ngành y lại có rất ít lời khuyên cho phụ nữ trẻ về việc phát hiện sớm ung thư vú. Chụp nhũ ảnh sàng lọc chỉ được khuyến nghị cho phụ nữ ở nhóm tuổi 40-74 do các nghiên cứu cho thấy chúng không hiệu quả đối với phụ nữ trẻ.

Các chuyên gia cũng cho hay phụ nữ trẻ mắc ung thư vú phải chịu đựng nhiều áp lực về mặt tâm lý so với nhóm lớn tuổi hơn. Nhiều người đã suy sụp khi biết mình rơi vào nhóm thiểu số mắc bệnh. Một số người khác lại lo lắng về sự nghiệp, cuộc sống gia đình và việc sinh con.

So với phụ nữ lớn tuổi, những bệnh nhân trẻ cũng có nhiều khả năng tái phát ung thư vú hơn và phát hiện bệnh ở giai đoạn nặng hơn. “Mắc ung thư vú là điều rất kinh khủng với bất kỳ ai. Nó còn tệ hơn khi bệnh nhân đang ở độ tuổi rất trẻ”, ông William Dahut, Giám đốc Khoa học Hiệp hội Ung thư Mỹ, nhận định.

ung thu vu tre hoa anh 1
Kaminky bật khóc nhờ con trai cắt tóc sau khi kết thúc đợt hóa trị. Ảnh: Washington Post.

Lý do ung thư vú trẻ hóa

Theo nhiều nghiên cứu, việc phổ biến tầm soát ung thư vú cho phụ nữ dưới 40 tuổi không mang lại lợi ích về mặt chi phí hay lợi ích lớn nào. Không những vậy, trong một số trường hợp hiếm gặp, nó còn có thể cho ra kết quả không chính xác, gây ảnh hưởng tâm lý nhiều người và khiến họ tiếp xúc với các tia xạ có hại cho sức khỏe một cách vô nghĩa.

Tuy nhiên, theo bác sĩ Monticciolo, tất cả phụ nữ trên 25 tuổi cần được đánh giá rủi ro bệnh ung thư vú. Những ai được phát hiện có nguy cơ cao hơn nên được khám sàng lọc thường xuyên.

Hiện, ngành y vẫn chưa tìm được những lý do chính xác cho việc trẻ hóa ung thư vú. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể đưa ra là trì hoãn mang thai, có kinh nguyệt sớm và lối sống.

Theo bà Elizabeth Suh-Burgmann, Trưởng đơn vị Ung thư phụ khoa của Tổ chức chăm sóc sức khỏe Kaiser Permanente tại Bắc California (Mỹ), một yếu tố có thể góp phần gây ra tình trạng trẻ hóa ung thư vú là trì hoãn mang thai.

“Ngày càng có nhiều phụ nữ trì hoãn việc mang thai lần đầu. Tuy nhiên, mang thai lần đầu ở độ tuổi 35 hoặc muộn hơn là một yếu tố nguy cơ”, bà Suh-Burgmann cho biết.

Một giả thuyết cho rằng sau 35 tuổi, vú có khả năng phát triển và tích tụ các tế bào bất thường hơn. Những thay đổi ở vú xảy ra trong thời kỳ mang thai có thể đẩy nhanh quá trình phát triển của các tế bào bất thường đó thành ung thư, khiến nhiều người phát hiện mắc ung thư khi mới ở độ tuổi 40.

Mô vú dày cũng là một yếu tố nguy cơ khác. Ngoài ra, có kinh nguyệt sớm và mãn kinh muộn cũng là nguyên nhân kéo lùi độ tuổi ung thư vú vì ngực tiếp xúc với estrogen lâu hơn.

Bên cạnh đó, lối sống, chế độ ăn uống, chỉ số BMI, lượng rượu bia tiêu thụ và môi trường sống cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú.

Di truyền là yếu tố nguy cơ gây ung thư vú, nhưng điều đó dường như không thúc đẩy xu hướng trẻ hóa độ tuổi ung thư vú. Bà cho biết hầu hết phụ nữ mắc ung thư vú khi còn trẻ không có nguy cơ di truyền.

Căn bệnh khiến em bé nguy kịch khi vừa chào đời

Trước khi sinh 3 ngày, chị L. mắc bệnh thuỷ đậu và không may lây cho con. Em bé vừa chào đời được bác sĩ chuyển thẳng vào khoa Hồi sức sơ sinh để điều trị tích cực.

Thuỷ đậu dù được xem là bệnh lành tính nhưng có thể gây biến chứng nặng đối với trẻ sơ sinh. Ảnh: Washington Post.

Trước khi sinh 3 ngày, thai phụ N.T.L. (ngụ huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) bất ngờ phát hiện bị thuỷ đậu. Em bé cũng được xác định mắc bệnh ngay khi mới chào đời.

Nhận định tình huống đe dọa tính mạng cho em bé, con chị L. ngay sau sinh đã được chuyển vào khoa Hồi sức cấp cứu sơ sinh, Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, điều trị. Tại đây, bé được cho thở oxy, truyền kháng sinh, truyền dịch điều trị triệu chứng. Sau vài ngày, bệnh nhi đáp ứng thuốc tốt, điều trị hiệu quả và được xuất viện.

Tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, đơn vị này còn điều trị cho một trẻ sơ sinh khác cũng mắc thủy đậu diễn biến nặng là bé P.T.M., 22 ngày tuổi, ngụ huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.

Sau khi sinh 10 ngày, mẹ bé M. mắc thuỷ đậu nhưng vẫn tiếp xúc bình thường với con. Đến 21 ngày tuổi, trẻ có nhiều mụn phỏng nước ở tay, chân, được kê thuốc thoa nhưng không đỡ. Ngày hôm sau, gia đình thấy bé có bỏng nước lan ra toàn thân, kèm theo ho và quấy khóc nhiều, nên đưa vào bệnh viện kiểm tra.

Sau khi thăm khám, trẻ được chẩn đoán suy hô hấp, nhiễm khuẩn sơ sinh, thuỷ đậu biến chứng viêm phổi nặng, chuyển khoa Hồi sức cấp cứu sơ sinh để thở máy, điều trị thuốc kháng virus, kháng sinh đường tĩnh mạch. Sau 12 ngày điều trị, tình trạng bé M. dần ổn định.

Theo bác sĩ Nguyễn Thị Trúc, khoa Hồi sức cấp cứu sơ sinh, Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, thủy đậu ở trẻ sơ sinh có thể gây bệnh nặng. Nếu không được điều trị bệnh kịp thời và đúng phác đồ, trẻ có thể gặp các biến chứng nguy hiểm như suy hô hấp, sốc nhiễm trùng, bội nhiễm vi khuẩn; các biến chứng về thần kinh; một số biến chứng khác như suy thượng thận, viêm cầu thận, tổn thương mắt, thậm chí nguy hiểm tính mạng.

Để phòng ngừa bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh, bố mẹ nên lên kế hoạch tiêm phòng đầy đủ. Mẹ mắc thuỷ đậu phải được cách ly với trẻ cho đến khi không còn khả năng lây bệnh cho con (thường 2-3 tuần).

Đặc biệt, khi trẻ sơ sinh có những dấu hiệu mắc thuỷ đậu, phụ huynh không nên tự điều trị tại nhà mà cần đưa con đến bệnh viện càng sớm càng tốt để được điều trị kịp thời, tránh các biến chứng nặng gây nguy hiểm cho trẻ.

Thói quen xấu khiến trẻ dễ mắc bệnh ở tai mũi họng

Tai mũi họng là căn bệnh phổ biến thường gặp ở trẻ nhỏ, do đây là các bộ phận nhạy cảm với tác động từ môi trường và khả năng đề kháng của trẻ chưa cao.

Tai mũi họng nếu không được điều trị kịp thời và dứt điểm sẽ rất dễ tái phát và dẫn đến viêm cầu thận, viêm khớp và các bệnh về tim.

Một số dấu hiệu cho thấy trẻ đã mắc các bệnh liên quan đến tai mũi họng bao gồm ngạt mũi, chảy nước mũi, rối loạn ngửi, thay đổi tiếng khóc, tiếng cười, đau tai, thính lực kém…

Một số bệnh tai mũi họng phổ biến ở trẻ

Viêm họng

Viêm họng thường được chia ra thành viêm họng cấp tính và viêm họng mạn tính. Người bị viêm họng không chỉ thấy đau nhức ở cổ họng mà còn bị ho kéo dài, sốt cao, ớn lạnh, nhức đầu.

Viêm xoang

Viêm xoang thường xảy ra ở trẻ dưới 6 tuổi. Khi trẻ mắc các bệnh đường hô hấp khác như viêm mũi dị ứng, viêm VA, viêm amidan mà không được điều trị dứt điểm, khả năng cao trẻ sẽ bị viêm xoang trong tương lai.

Viêm mũi dị ứng

Người bị viêm mũi dị ứng sẽ có triệu chứng hắt hơi, ngạt mũi, ngứa mũi, chảy mũi, đây là tình trạng viêm niêm mạc mũi xoang. Viêm mũi dị ứng thường chia thành 2 loại là viêm mũi dị ứng theo mùa và viêm mũi dị ứng quanh năm.

Viêm amidan

Viêm amidan có 2 giai đoạn là viêm amidan cấp tính và mạn tính. Biểu hiện chung khi bị viêm amidan là đau họng, amidan sưng to, gây khó khăn cho việc ăn uống, thậm chí là khó thở. Nếu bị amidan quá nặng, thậm chí phải thực hiện phẫu thuật cắt bỏ amidan.

Viêm amidan có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi, nhưng trẻ em và thanh thiếu niên vẫn là đối tượng mắc bệnh nhiều nhất do hệ miễn dịch yếu, sức đề kháng kém.

Thói quen xấu gây bệnh tai mũi họng ở trẻ

Bệnh ở tai mũi họng xảy ra chủ yếu là do thời tiết thất thường, môi trường ô nhiễm khói bụi. Ở người lớn, một số nguyên nhân chủ quan còn do thói quen sử dụng tai nghe âm lượng lớn, hút thuốc lá, uống rượu quá nhiều… Đối với trẻ em thì các nguyên nhân dẫn đến bệnh tai mũi họng lại khá đơn giản và tưởng chừng vô hại như:

Đưa đồ vật vào mũi và miệng

Các đồ vật xung quanh thường tiềm ẩn rủi ro vi khuẩn gây bệnh. Vì vậy, nếu trẻ vô tư chơi đùa và cho trực tiếp các đồ vật này tiếp xúc với đường thở, khả năng tai mũi họng sẽ bị virus, vi khuẩn xâm nhập là rất cao, dẫn đến các bệnh lý đường hô hấp. Chưa kể nếu trẻ nuốt nhầm dị vật sẽ gây khó thở ngay lập tức, ảnh hưởng đến tính mạng.

Cắn móng tay

Phụ huynh nên tập cho con từ bỏ thói quen cắn móng tay. Trong móng tay có rất nhiều vi khuẩn, khi cắn sẽ trực tiếp đưa lượng vi khuẩn này vào miệng và cổ họng, tạo điều kiện cho vi khuẩn, virus “hoành hành” trong cuống họng.

Xì mũi

Khi cho trẻ xì mũi, không nên xì quá mạnh, vì sẽ tạo ra áp suất lớn trong hốc mũi, làm vỡ các mạch máu nhỏ, gây chảy máu mũi và dẫn đến các bệnh lý như viêm tai giữa cấp.

Ngoáy mũi, ngoáy tai

Việc ngoáy mũi không đúng cách có thể khiến trẻ bị chảy máu mũi, làm tổn thương da vùng tiền đình. Ngoáy mũi cũng khiến virus, vi khuẩn, nấm… từ tay vào mũi dễ dàng hơn, dẫn đến các bệnh viêm mũi, viêm xoang.

Lời khuyên của thầy thuốc

Khi trẻ bị viêm mũi họng sẽ có các biểu hiện như sốt cao liên tục không hạ, mặc dù đã áp dụng chườm ấm và hạ sốt; ho nhiều, lồng ngực rút lõm, có dấu hiệu khó thở, nhịp thở nhanh bất thường; rối loạn tiêu hóa kèm theo nôn nhiều; tai sẽ thấy có dịch chảy ra…

Sau khi điều trị 2-3 ngày mà các triệu chứng của viêm mũi họng không cải thiện, trẻ cần được đưa đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.

Biện pháp để phòng tránh bệnh viêm mũi họng ở trẻ:

  • Vệ sinh mũi và hướng dẫn trẻ súc miệng bằng nước muối sinh lý.
  • Đảm bảo chế độ dinh dưỡng đa dạng nhóm chất và vitamin.
  • Tăng cường sự khỏe mạnh của hệ thống miễn dịch bằng việc bổ sung thêm các khoáng chất, vitamin, thực phẩm tăng cường miễn dịch.
  • Không để trẻ đưa tay lên mắt, mũi, miệng.
  • Không để trẻ tiếp xúc với những người đang mắc bệnh viêm mũi họng hoặc các bệnh lý về đường hô hấp khác.
  • Vệ sinh nhà cửa, không gian sinh hoạt cũng như đồ chơi của trẻ thường xuyên.
  • Không sử dụng chung khăn mặt, khăn tắm, bàn chải đánh răng với người khác.
  • Che miệng khi hắt xì, ho… tránh lây lan vi khuẩn trong không khí.
  • Cho trẻ tiêm phòng đầy đủ có thể hạn chế được nhiều chủng vi khuẩn và virus gây viêm mũi họng ở trẻ em.

2.000 trẻ em Việt mắc bệnh đái tháo đường type 1

Ước tính khoảng 2.000 trẻ em Việt mắc đái tháo đường type 1, chiếm 90% bệnh đái tháo đường ở trẻ, và có xu hướng tăng.

TS Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Phụ trách, Quản lý và Điều hành Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho biết thông tin trên tại tập huấn triển khai Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh đái tháo đường type 1 ở trẻ em và thanh thiếu niên, chiều 24/6.

Ở Việt Nam, hiện chưa có dữ liệu đầy đủ về dịch tễ của đái tháo đường type 1 ở trẻ em. Dữ liệu từ các bệnh viện tuyến cuối về trẻ em cho thấy bệnh có xu hướng tăng trong cả nước từ 7 năm gần đây và việc chẩn đoán điều trị còn khó khăn.

Như tại Bệnh viện Nhi Trung ương, trước đây điều trị khoảng 10-15 bệnh nhi đái tháo đường type 1 mỗi năm. Tuy nhiên, những năm gần đây số lượng tăng nhanh, mỗi năm có hàng trăm trẻ điều trị. Hiện bệnh viện đang quản lý khoảng 200-300 trẻ bệnh đái tháo đường type 1.

Đái tháo đường type 1 do sự phá hủy tế bào beta tụy (tế bào tiết insulin), gây thiếu hụt insulin nội sinh, còn đái tháo đường type 2 do giảm chức năng tế bào beta tụy tiến triển trên nền tảng đề kháng insulin.

Đái tháo đường ảnh hưởng đến tim mạch, mắt, thần kinh, là nguyên nhân chính gây suy thận và rất nhiều biến chứng khác, làm tăng chi phí y tế và giảm chất lượng cuộc sống. Chi phí y tế đối với người trưởng thành bị đái tháo đường chiếm 12% chi phí y tế toàn cầu.

Liên đoàn Đái tháo đường thế giới (IDF) ước tính khoảng 537 triệu người trưởng thành trên toàn cầu đang sống chung với bệnh đái tháo đường, dự đoán lên 783 triệu người vào năm 2045. Một nửa số người đái tháo đường không được chẩn đoán. Nhiều người sống với bệnh một thời gian dài mà không nhận biết tình trạng của mình, đến khi được chẩn đoán thì đã xuất hiện biến chứng. 70% trường hợp có thể phòng ngừa hoặc trì hoãn bởi áp dụng lối sống khỏe mạnh.

Một em bé mắc đái tháo đường được điều trị tại bệnh viện. Ảnh:Thúy Quỳnh

Một em bé mắc đái tháo đường được điều trị tại bệnh viện. Ảnh:Thúy Quỳnh

PGS.TS Trần Minh Điển, Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, cho biết đái tháo đường type 1 còn gọi là đái tháo đường phụ thuộc insulin, gặp từ nhóm tuổi sơ sinh đến bất kỳ tuổi nào. Nguyên nhân liên quan đến nhiều yếu tố như tính nhạy cảm di truyền, các yếu tố môi trường, hệ thống miễn dịch…

Bệnh thường khởi phát bệnh với các triệu chứng khá rầm rộ trong thời gian ngắn như khát nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy sút cân nhanh chóng trong thời gian 2-6 tuần trước khi nhập viện. Trường hợp nặng hơn có thể hôn mê do nhiễm toan ceton hoặc tăng áp lực thẩm thấu máu. Trong giai đoạn này, người bệnh có thể có các biểu hiện khác như đau bụng thượng vị, nôn, buồn nôn dẫn đến chẩn đoán nhầm với bệnh lý khác.

“Bệnh nhân đái tháo đường type 1 cần được điều trị bằng insulin ban đầu ở bệnh viện, sau đó liều ổn định sẽ điều trị tại nhà”, PGS Điển nói, thêm rằng chủ yếu tập trung theo dõi bệnh nhân, điều trị phù hợp giảm biến chứng.

Hiện chỉ có một vài bệnh viện lớn như Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi đồng 1 và Bệnh viện Trung ương Huế quản lý nhóm trẻ bệnh đái tháo đường type 1. Đây là một vấn đề khó khăn trong điều trị cho trẻ bởi hiện nay ít bác sĩ nhi khoa am hiểu bệnh này.

Các chuyên gia đề xuất mở rộng hệ thống quản lý nhóm bệnh này ở các cơ sở y tế, chỉ cần đơn vị nhỏ quản lý 15-20 bệnh nhân cũng giúp giảm tải cho bệnh viện tuyến trên.

phone24
HOTLINE CẤP CỨU

1900 9294

  • Thời gian làm việc:
    Sáng từ 7h đến 11h Chiều từ 13h30 đến 19h kể cả ngày chủ nhật và ngày lễ.
  • Địa chỉ phòng khám:
    49/B1 ĐT 743, KP 3, An Phú, Thuận An, Bình Dương
  • Email:
    pkdkbinhan@yahoo.com
  • Fax:
    0274 3714 088
Scroll To Top
Đặt lịch khám